Lương y Tạ Minh.
I/- CHẨN ĐOÁN VỀ HUYẾT
Theo nhận định riêng của tôi, huyết
không chỉ là máu, là hồng cầu, tiểu cầu màu đỏ mà bạch cầu, huyết tương và các
vi chất cần thiết trong một cơ thể bình thường cũng thuộc huyết.
Chẩn đoán về huyết cần tổng hợp các
khía cạnh sau:
1)
Màu sắc của niêm mạc mắt và lưỡi (chất lưỡi): hồng đều
là tốt. Niêm mạc mắt và môi quan trọng hơn vì có khi chất lưỡi biểu hiện
bệnh lý của tim. Cần xem xét niêm mạc của trẻ khoảng từ 5 – 17 tuổi khỏe
mạnh mà ta biết để lấy chuẩn. Về môi thì xem phía trong môi nơi tiếp xúc với
răng lợi (nướu). Về mắt thì chia làm hai phần trong và ngoài của mặt trong mí
mắt. Màu hồng phải trải đều. Nếu có ẩn màu vàng là có thấp, ẩn màu nâu là thiếu
oxy, có tia máu là có huyết ứ. Nhạt hay trắng là huyết suy. Trong nhạt
ngoài hồng là chỉ thiếu máu. Trong nhạt ngoài đỏ là thiếu máu có hư nhiệt. Đỏ
toàn bộ thì hoặc thực nhiệt (bàn chân ấm) hoặc thượng nhiệt hạ hàn (bàn chân
lạnh). Với trường hợp này sau khi giải quyết hiện trạng bệnh xong (do thực
nhiệt hoặc do thượng nhiệt hạ hàn) ta cần xét lại mí mắt để biết tình trạng
thật của huyết.
2)
Màu sắc của da, độ tươi nhuận của da, màu sắc các móng
tay chân. Màu sắc các nơi này cần hồng nhuận tươi bóng và thuần màu.
3)
Đo huyết áp xem trị số và quan sát khoảng lui kim, tốc
độ lui kim: thiếu máu khi huyết áp tâm thu từ 100 trở xuống kèm theo hiện tượng
độ lui kim ít hơn 2 mmHg (1 nấc trên mặt đồng hồ) nhưng cũng có khi kèm thêm
khí kém (chức năng kém) hay dương kém (sợ lạnh, thiếu sức bền). Có phối hợp với
các yếu tố kể trên. Cần xem thêm bài “Cách đo huyết áp” trong “Các bệnh thường
gặp”.
4)
Xem mạch: thuộc kiểu mạch tiểu (nhỏ), mạch vô lực.
5)
Xem xét về hiện trạng Thể dịch. Việc này cần tham khảo
các xét nghiệm Cận lâm sàng.
Tổng hợp các yếu tố trên xong, phân tích để quyết đoán về
huyết ở tình trạng nào: tổng lượng máu, thành phần máu, có tạp chất hay
không, các nội tiết tố (cần xét nghiệm).
II/- CHẨN ĐOÁN VỀ KHÍ
Đông y mô tả Khí khá phức tạp và là
thành phần vô hình, chỉ nhận biết mà không thấy được. Chữ Khí của Đông y bao
gồm khí trời, khí của thức ăn và khí trong cơ thể. Chúng thường được đề
cập một cách hồn nhiên nên đôi khi gây hoang mang khó hiểu cho người mới học.
Tuy nhiên theo tôi, nếu nói về Khí trong cơ thể thì Khí là chức năng các hoạt
động của các cơ quan. Còn khí thiên nhiên do cơ thể hấp thu và sử dụng thì cần
quy về thành phần của Thiên khí. Nói theo cách “Tây y” thì Khí là hệ thần kinh
của bệnh nhân. Thí dụ: Phế khí suy là chức năng hô hấp kém, Vị khí dương suy là
chức năng co bóp và Vị khí âm suy là chức năng tiết dịch vị của dạ dày kém, Đại
trường khí suy là chức năng truyền tống kém (nhu động ruột) làm cho
bón……v.v.. Tương tự ta có khí toàn thân suy tổng quát là Nguyên Khí (Chân khí)
suy là chức năng hoạt động thần kinh của toàn thân kém làm cơ thể lười nhác, uể
oải, thiếu linh hoạt. Điều này thể hiện qua trạng thái hoạt động toàn thân và
vẻ linh hoạt của mặt và mắt; trường hợp này thường được Tây y chẩn đoán là suy
nhược thần kinh, là trầm cảm.
Đối với các tạng phủ thì xem xét dựa
theo sinh lý của chúng để đánh giá. Với người giỏi mạch thì việc chẩn đoán về
khí không khó. Nhưng nếu không biết xem mạch thì với việc phát huy cách đặt câu
hỏi khéo léo cộng với sự quan sát bằng mắt, óc suy luận, dựa trên hiện tượng khác với sinh lý bình thường của tạng
phủ ta vẫn có thể chẩn đoán về khí cũng không mấy khó khăn (bệnh lý chính là sự
khác thường của sinh lý).
Điểm khác biệt giữa Dương suy và Khí
suy là: Dương hư luôn có sợ lạnh, thiếu sức bền mặc dù vẫn siêng năng tích cực.
Còn Khí suy thì không sợ lạnh, chỉ lười uể oải nhưng khi bị ép buộc thì sức làm
việc vẫn bền bỉ. Muốn phân biệt Dương và Khí thì cần đặt câu hỏi theo hướng
này.
Tóm lại, để dễ hiểu theo ngôn ngữ
hiện đại, theo tôi thì khí là thần kinh, huyết là thể dịch của cơ
thể.
Bài viết này là kinh nghiệm thực tế
và không theo hẳn Đông y mà có đối chiếu với Tây y. Do đó sẽ hơi khác với các
tài liệu Đông y đã có.
TP. Hồ Chí Minh, 1993.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét