Lương y Tạ Minh, 1988.
Thấp là ẩm thấp, là độ ẩm của vật
chất. Trong y học có 2 loại thấp: ngoại thấp và nội thấp. Ngoại thấp là thấp từ
môi trường bên ngoài xâm nhập vào cơ thể. Nội thấp là thấp do cơ thể tự sinh
ra. Thủy là nước. Nước là thành phần cần thiết cho cơ thể, nhưng có tỷ lệ nhất
định đối với thể trạng cơ thể. Thiếu hay thừa nước đều gây bệnh. Nước thừa bị
thân nhiệt làm nóng sẽ cô đọng lại thành thấp, để lâu hơn sẽ cô đọng hơn nữa và
thành đàm. Cho nên thủy và thấp dễ trừ hơn đàm. Chỉ có ngoại thấp và thủy mới
gây bệnh trực tiếp ngay tức thì cho cơ thể. Còn nội thấp và đàm vốn do cơ thể
sinh ra nên không gây bệnh ngay mà chỉ gây trở ngại sinh lý cho cơ thể nếu còn
ít. Khi có bệnh rõ ràng là thấp và đàm khá nhiều khiến sinh lý cơ thể khó hoạt
động mà sinh bệnh.
Ta có thể hình dung như sau: một căn
nhà muốn đi lại dễ dàng cần thông thoáng, đồ vật cần dùng trong nhà được bố trí
hợp lý. Khi có quá nhiều vật dụng cũ kỹ (mà do tiếc của, đã để lại sau khi đã
có đồ mới) và bố trí bừa bãi thì việc đi lại trong nhà sẽ khó khăn vì vướng
víu. Cơ thể cũng vậy, Nội-Thấp và Đàm do chính cơ thể sinh ra, chúng không phải
là độc tố ngoại lai nên hầu như không gây bệnh rõ ràng, nhưng chúng khiến sinh
lý cơ thể hoạt động không linh hoạt thông suốt. Chính sự không thông suốt này
lâu ngày gây bế tắc sinh bệnh. Đông y có một khái niệm rất hay “ khí hành thì
thấp tan, khí suy sinh thấp trệ”. Cho nên không chỉ mạch Hoạt mới có đàm thấp
mà mạch Hoãn cũng có thể biểu hiện có thấp đàm.
Triệu chứng bệnh do đàm thấp thủy
khá phong phú và phức tạp. Thậm chí có một số tác giả Đông y cho là “quái bệnh”
(bệnh kỳ quái). Nhiều trường hợp bệnh nhân cảm thấy khó chịu không thoải mái,
cảm thấy mình có bệnh nhưng thầy thuốc tìm không ra bệnh, nhất là khi dùng Tây
y để chẩn đoán.
Thấp, đàm vốn không hàn không nhiệt.
Nhưng rất dễ kết hợp với hàn nhiệt để tạo ra thấp-hàn, thấp-nhiệt, đàm-hàn,
đàm-nhiệt. Do đó cần kết hợp với triệu chứng của hàn nhiệt để chẩn đoán và điều
trị chính xác.
Một số triệu chứng thường gặp do
thủy, thấp, đàm gây ra:
-
Người luôn uể oải mỏi mệt không có lý do.
-
Giấc ngủ mê mệt mà không khỏe khi thức giấc.
-
Ngủ dễ hay khó thì cũng thức giấc khó khăn.
Không tỉnh táo ngay khi thức giấc dù ngủ không thiếu.
-
Tứ chi cảm thấy nặng nề hoặc mỏi vô cớ, nhất là
lưng và chi dưới.
-
Luôn cảm thấy lười biếng.
-
Đầu óc không minh mẫn dù không thiếu ngủ hay vận
dụng trí óc quá nhiều. Mà trước đây không có hiện tượng này, cũng không bị
stress, có nghĩa không hề có vấn đề gì về tinh thần. Cũng không bị thiểu năng
tuần hoàn não.
-
Thay đổi màu sắc ở da, niêm mạc. Hoặc da mất độ
tươi nhuận - theo lứa tuổi.
-
Phù thũng (ấn vào vùng nhiều thịt ở cổ chân bàn
chân bị lõm xuống mà khi thả ra không lồi lên ngay).
-
Béo phì vô cớ, ăn ít ăn thiếu chất mà vẫn
mập. Tuy nhiên với triệu chứng này cần xem xét thêm để loại trừ bệnh ở tuyến
Yên.
-
Những bệnh thuộc loại xơ hóa, sừng hóa đều thuộc
dạng đàm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét